Giáo trình Kỹ thuật nuôi cá Cảnh – Phần 3

CHƯƠNG III: THỨC ĂN CHO CÁ CẢNH

Trong thiên nhiên, cá sống trong nước được sinh trưởng bình thường nhờ có nguồn thức ăn tự nhiên phong phú về chủng loại và về số lượng như: phiêu sinh vật, giun ốc, côn trùng, ếch nhái, rong, tảo, thực vật thủy sinh… Ngược lại, trong bể nuôi thức ăn tự nhiên không có nên cần cung cấp thức ăn từ bên ngoài như: trứng nước, cung quăng, Artemia, trùn chỉ, rong, tép, thịt bò, gan heo, cá mồi, các loại thức ăn viên.

I. Trùng bánh xeBrachionus plicatilis
– Các giống loài luân trùng thường gặp là Brachionus, Karatella… Tỉ lệ trứng nở và mật độ trùng bánh xe B. plicatilis phụ thuộc vào các yếu tố môi trường (nồng độ muối) và thức ăn. Nồng độ muối thích hợp nhất cho loài này ở 25 o/oo trong dung dịch Na2SO4 và NaCl. Tỉ lệ tảo biển Chlorella và men tốt nhất là 1:2 với mật độ thức ăn là
100 µg/ml.

– Hệ thống nuôi liên tục: Hệ thống nuôi bao gồm bể chính 1100 lít và bể nuôi phụ 200 lít. Mật độ thả ban đầu là 150 cá thể/lít, sau đó mật độ tăng dần tới cực đỉnh và chuyển sang giảm dần. Thời gian một chu kỳ 27 ngày. Thức ăn cho trùng bánh xe là men bánh mì khô. Lượng men cho ăn hàng ngày tùy thuộc vào số lượng trùng bánh xe, chẳng hạn như 1 gam cho 106 cá thể. Như vậy trong bể nuôi cần cung cấp 340g. Lượng men cung cấp hàng ngày giới hạn 22% thể tích nước nuôi cung cấp cho bể và bơm liên tục trong 20 giờ. Mật độ trung bình trong bể là 800 cá thể/ml và cực đại là 1100 cá thể/ml. Tổng lượng thu hoạch trong 42 ngày là 8.16 x 10^9 cá thể và hàng ngày 1.95 x 10^8. Tổng lượng men cho 42 ngày là 32,8kg. Theo ước tính cứ 1g men cho 0,74g trùng bánh xe khô (trọng lượng 3.0 x 10^-6 g/ cá thể).

– Hệ thống nuôi ngoài trời: Hệ thống được thiết kế 3 bể 10 tấn, 2 bể 20 tấn và cho ăn tảo Chlorella. Mật độ ban đầu cho mỗi bể từ 10 – 30 cá thểt/lít. Men bánh mì được cung cấp vào bể với tảo tỉ lệ là 3 lít/tấn. Mật độ 90 ct/l và lượng cung cấp là 500 x 10^6 cá thể/ngày. Nhiệt độ duy trì 25 – 28 độ C.

– Hệ thống nuôi mẻ: Hệ thống nuôi có 6 bể với dung tích 0,5 tấn/ bể được cho ăn nước tảo Chlorella và men bánh mì. Mật độ không cố định, nhưng sinh khối cung cấp hàng ngày là 52,5 x 10^6 cá thể.

II. Trứng nước (Moi na)
– Trứng nước còn gọi là bọ đỏ, bo bo hay Moina thuộc nhóm giáp xác râu ngành (Cladocera). Lẫn trong nước thường có các giống khác như: Daphnia. Moina chủ yếu phân bố ở nước ngọt thường tập trung thành đám dày đặc màu đỏ vào buổi sáng sớm trong các ao hồ, vùng nước, của cống rãnh có nhiều chất hữu cơ.

trung nuoc

– Trứng nước có lối sinh sản đặc biệt là trinh sản hay sinh sản đơn tính nghĩa là con cái có thể sinh ra những thế hệ con hoàn toàn cái trong điều kiện thuận lợi về thức ăn, nhiệt độ và mật độ. Ngược lại, trong điều kiện sống không thích hợp, có sự xuất hiện của con đực và sinh sản hữu tính cho ra trứng ở trạng thái tiềm sinh giúp chúng qua được điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Trứng nước có khả năng sinh sản nhanh, chẳng hạn như Moina micrura, con cái mới nở sau 48-60 giờ sinh sản lần I và 25 – 30 giờ sinh sản lần II. Số con mỗi lần sinh sản trung bình 15 – 20 con.

– Thức ăn của chúng chủ yếu những loài tảo đơn bào, các loại nấm men và vi khuẩn.

– Cách nuôi trứng nước: 18,9g phân ngựa phơi khô, 100g đất, nước ao 1 lít. Cho 3 thành phần này vào lọ chứa để trong mát, sau 4 ngày lọc lấy phần nước và bỏ phần bã. Dung dịch pha loãng với 4 phần nước trong ao sau đó để nuôi.

– Khi nuôi trong ao đất, cần ao 50 – 100m2, sâu khoảng 0,3 – 0,5m, sau đó bón phân chuồng vào.

III. Artemia
Artemia thuộc nhóm giáp xác thấp thích nghi ở độ mặn cao 100 – 200 ‰. Artemia ngành Arthropoda, lớp Crustacea, bộ Anostraca. Giá trị dinh dưỡng Artemia rất cao, 52% protein và 27% chất béo cho nên nó là thức ăn tốt cho các loài tôm cá đặc biệt ở giai đoạn sau khi nở. Nó là loài ăn lọc, các tơ lọc của chúng lọc ngẫu nhiên các loại vật chất hữu cơ lơ lửng trong nước miễn là có kích thước vừa cở miệng của chúng. Trứng Artemia nở trong nước biển 5 – 35 ‰. Thông thường 1 g Artemia có 180.000 trứng.

artemia

IV. Trùn chỉ
– Trùn chỉ (Turbifex) thường sống ở nơi nước nhiễm bẩn, cống rãnh. Chúng vùi đầu trong bùn và rút xuống đất nhanh khi có động. Để vớt được trùn chỉ, người ta dùng vợt hốt luôn bùn có lẫn trùn, rồi sau đó dùng lưới nilon đãi lại cho đến khi chỉ còn một khối trùn.

– Trùn chỉ làm nguồn thức ăn cho cá bột 4 – 5 ngày tuổi trở đi.

V. Ấu trùng muỗi đỏ
– Trùng muỗi đỏ là ấu trùng côn trùng không cánh (đốt) thuộc họ Chironomidae (Bộ Diptera, Lớp Insecta). Ở Singapore hơn 50 loài thuộc nhóm được ghi nhận. Không phải hầu hết ấu trùng Chironomid đều đỏ. Những dạng bề mặt màu xanh, số khác màu trắng và chỉ những nơi chứa Haemoglobin là màu đỏ và tuy nhiên tên của nó vẫn gọi là trùng muỗi đỏ. Ấu trùng và thành trùng muỗi đỏ có dinh dưỡng cao, bổ và là một trong những cấu thành thức ăn chủ yếu cho nhiều loài cá trong điều kiện tự nhiên. Tầm quan trọng của ấu trùng muỗi đỏ như là thức ăn tươi sống cho nghề nuôi cá cảnh được nuôi ở nhiều quốc gia ở Đông Nam Á. Tất cả nhóm cá dữ như tai tượng beo, cá đĩa, cá lia thia và nhóm cá rô rất thích thú khi ăn ấu trùng này và cá lớn nhanh hơn và sinh sản sớm hơn. Chúng được đề cập tới qua các tài liệu chứng minh chúng là nguồn cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho sinh trưởng của cá. Chẳng hạn ở cá chép có ăn thức ăn bổ sung là trùng muỗi đỏ thì chúng tăng trưởng tốt hơn về trọng lượng, tỉ lệ tăng trưởng và đồng đều hơn. Trùng muỗi đỏ có thể đạt được tăng trưởng hiệu quả ở cá giống Mugil carpio.

– Việc cung cấp ấu trùng muỗi đỏ cho các nhà nuôi cá địa phương của Singapore thường nhập chính yếu từ những nước láng giềng và một phần do sản xuất trong nước. Môi trường sinh sản tự nhiên cho muỗi đỏ bị giới hạn do sự đô thị hóa và hiện đại hóa của đất nước. Hơn nữa việc cung cấp trùng muỗi đỏ luôn bị động không đáng tin cậy và theo mùa vì ấu trùng phát triển thất thường nhất là vào mùa mưa.

– Trong thời gian qua, cách đây khoảng nửa thế kỷ những cố gắng sinh sản nhân tạo trùng muỗi đỏ trong điều kiện thí nghiệm được thực hiện ở nhiều nước. Điều khó khăn nhất là khả năng kích thích sinh sản và thành thục của côn trùng hai cánh muỗi đỏ trong điều kiện nuôi.

5.1 Sinh học và vòng đời
Vòng đời trùng muỗi đỏ được chia thành 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thành trùng và côn trùng trưởng thành. Chúng được đẻ ra trong một khối như một chất nhầy trong suốt. Mỗi khối chứa khoảng 50 – 70 trứng. Trong điều kiện nhiệt đới, thời gian ấp trứng khoảng 24 – 48 giờ. Ấu trùng mới nở thì không vượt quá 1mm chiều dài nhưng vào giai đoạn cuối đo được 10 – 15mm. Mỗi ấu trùng lột xác 4 lần trước khi chuyển sang giai đoạn thành trùng. Sau 2 ngày hoặc hơn chúng lên mặt nước và lột xác để biến thành dạng trưởng thành. Chúng rất mềm mại và chân dài bay không quá 5mm và hiếm khi hơn 10mm chiều dài. Chúng sống 3 – 5 ngày và thành thục và đẻ trứng trong thời kỳ này. Con trưởng thành chiếm số lượng lớn trong vùng lân cận của ao, hồ và suối bởi vì trứng được đẻ ra trong nước và các giai đoạn ấu trùng cũng trong nước.

5.2 Giá trị dinh dưỡng
Giá trị dinh dưỡng của trùng muỗi đỏ rất tốt. Phân tích hóa học chỉ ra rằng chúng chứa 9.3% vật chất khô, trong đó 62,5% protein thô, 10,4% béo thô, 11,6% tro và 15,6% carbohydrate. Chúng cũng là nguồn cung cấp sắt cho cá bởi vì chúng chứa Haemoglobin như động vật có xương sống.

5.3 Thu vớt trùng muỗi đỏ từ những thủy vực tự nhiên
– Ấu trùng côn trùng muỗi đỏ có thể tìm thấy ở hầu hết các thủy vực với đáy bùn. Chúng được tìm thấy với số lượng lớn trong các mương nước chảy từ các nhà máy bia, rượu, tinh chế đường và những thủy vực nước bẩn. Ấu trùng rời khỏi ống bao phủ thân, chỉ vào ban đêm khi hàm lượng oxy hòa tan trong nước thấp và thời điểm này là thời gian tốt nhất để bắt chúng với số lượng lớn. Chúng sẽ dễ dàng bị đánh bắt bằng lưới nilon.

– Trùng muỗi đỏ dễ dàng bị vớt bằng lưới sàng trên lớp bùn đáy ao. Ấu trùng và các vật liệu cát sẽ ở lại trong sàng và đặt sàng qua lại trong thao đầy nước, sau đó trùng sẽ bơi lên trên mặt nước và chúng dễ dàng bị vớt ra ngoài.

5.4 Phương pháp nuôi
– Ở Hongkong, nuôi trùng muỗi đỏ sinh trưởng bằng cách bón phân gà, sản lượng 28g/m2/tuần nó thì thấp hơn nếu so sánh với sản lượng 250 – 375g/m2/tuần nuôi bằng phân gà trong khay đặt trong nhà kính và sục khí. Phân ngựa cũng được dùng bón cho hố nuôi trùng muỗi đỏ nhưng sản lượng tốt nhất là 11g/m2/tuần.

– Để sản xuất lượng lớn trùng muỗi đỏ chi phí sẽ phải được cân nhắc lại. Những sản phẩm từ những nhà máy chế biến thì rất thích hợp để nuôi ấu trùng. Một số thí nghiệm nuôi trùng muỗi đỏ dùng các sản phẩm thải như bột mì, cám, bột đậu nành, phế phẩm của dừa.

– Bất kì kích cỡ bể và vật liệu đều được dùng nuôi trùng muỗi đỏ. Sục khí trong bể nuôi làm gia tăng oxy hòa tan góp phần cho sự phân hủy các vật liệu thức ăn và hô hấp của trùng. Sục khí liên tục góp phần làm giảm tỉ lệ chết của trùng. Mức nước trong bể thì không nhiều lắm, thông thường khoảng 20cm. Trong quá trình nuôi rất cần thiết dùng lưới nilon phủ lên trên để đề phòng muỗi thường đến và đẻ trứng vào bể. Tốt nhất nên cấp nước vào bể một ngày trước khi chuyển trứng vào bể để làm giảm lượng chlorine trong nước. Lượng thức ăn cho vào bể tùy từng thời điểm tùy thuộc vào kích thước bể và mật độ quần thể muỗi. Cho quá nhiều thức ăn vào bể sẽ làm mất chất dinh dưỡng do sự phân hủy. Thường 3 g thức ăn đủ cho 1.000 trứng trong bể. Thức ăn sẽ làm chất nền tốt cho sự phân bố và dễ dàng tiêu hóa thức ăn cho ấu trùng mới nở. Trộn thức ăn sau khi chúng cho vào làm các vật thể thức ăn rãi đều trên nền đáy bể.

– Sản lượng tốt nhất trong bể chứa 3.000 – 4.000 trứng. Cùng lượng thức ăn nên cho vào lần nữa trong ngày thứ sáu hay thứ bảy và lần thứ ba cho ngày thứ chín hay thứ mười. Thu hoạch vào ngày thứ 12 – 14 khi giai đoạn thành trùng bắt đầu xuất hiện. Ấu trùng thu hoạch có thể cho vào các túi nhựa và để tránh chúng lột xác thành thành trùng và làm giảm sự tiêu thụ oxy, chúng có thể tạm thời trữ vào trong tủ lạnh (5 – 10 độ C) khoảng một ngày mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống. Tỉ lệ sống sẽ tốt hơn khi cho vào túi nhựa oxy với tỉ lệ phân nữa.

– Để sản xuất liên tục nuôi trữ phải được duy trì chính vì thế cần có sự cung cấp liên tục trứng trong sinh sản nhân tạo. Trại nuôi có ít nhất 4-6 bể, những bể này cũng được quản lí như các bể nuôi. Khoảng 4 – 6 tuần mẻ nuôi mới lại bắt đầu. Bể củ thì không thích hợp cho muỗi vào để đẻ. Để bắt đầu một mẻ nuôi mới có thể thu trứng từ những bê củ trộn lẫn lại với nhau trước khi vớt chúng ra ngẫu nhiên và đưa vào bể trữ mới nhằm chóng lại hoặc giảm sinh sản cận huyết. Lai cận huyết nghĩa là sinh sản giữa anh và chị em trong cùng thế hệ làm cho việc nuôi giảm nhanh chóng và sức sinh sản giảm theo. Vì vậy trộn trứng là quá trình quan trọng để duy trì sức sản xuất tốt cho bể nuôi.

VI. Sâu gạo
Sâu gạo là ấu trùng của gạo cánh cứng (Tenebrio molitor và T.ocurus) là thức ăn tốt cho nhiều loài động vật khác nhau như chim, thằn lằn, rùa, ếch, động vật nhỏ và cá. Chim cảnh dùng thức ăn này trong nhiều năm qua. Đặc biệt trong mỗi lần sinh sản, Tenebrio molitor đẻ rất nhiều trứng, ấu trùng thường bán cho những cửa hàng vật cảnh dùng cho những động vật ăn côn trùng và rộng hơn dùng trong phòng thí nghiệm. Một vài nhóm cá rô phi, cá mè, cá kiếm, cá họ tetra rất thích loại thức ăn này và nhất là ấu trùng lột xác.

6.1 Sinh học và vòng đời
– Có 2 loài sâu gạo, sâu gạo màu vàng (Tenebrio molitor) và sâu gạo màu đen (Tenebrio molitor). Cả 2 loại này rất giống nhau và đều thuộc họ Tenebrionidae. Những giai đoạn khác nhau của 2 loài cánh cứng này tập trung vào hình dạng, kích thước và màu sắc. Con trưởng thành của sâu gạo đen thì đen đậm trái với màu sáng xám hay đen lợt ở sâu gạo vàng. Đốt thứ ba của râu con sâu gạo vàng trưởng thành thì ngắn hơn đốt một và hai và đen hơn, trong khi đó con đen thì các đốt này điều nhau. Những miếng lưng của con sâu gạo vàng có màu xám vàng còn sâu gạo đen có màu xám đỏ hoặc xám đen. Đốt râu thứ hai của sâu gạo vàng dài gấp ba lần chiều rộng thân của nó, trong khi đó ở sâu gạo đen dài gấp bốn lần.

sau gao

– Sâu gạo là một trong những côn trùng (giai đoạn thành trùng) lớn nhất tấn công các kho chứa hàng nhưng chúng không nguy hiểm lắm. Một vài người xem loài sâu gạo này như là vật cưng (Pet), thật vậy họ nuôi chúng trong bể kính và chăm sóc chúng như các con vật thân thuộc. Chúng có thể nuôi rất tiện lợi trong cám và bột yến mạch.

– Vòng đời sâu gạo vàng được chia làm bốn giai đoạn như sau: Trứng, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. Vòng đời sẽ kết thúc khoảng 3-4 tháng. Trứng có dạng hạt đậu và đẻ thành từng hàng hay nhóm. Kích thước khoảng 1,8 – 1,9mm. Trứng được bao lại trong một lớp chất bã dính vào các vật thể như các mãnh thức ăn và phân thường dính lại. Trứng sẽ biến thái thành ấu trùng khoảng 7 ngày ở nhiệt độ 28 độ C và sau đó ấu trùng khoét một lổ chui ra ngoài.

– Ấu trùng mới nở từ trứng dài khoảng 3mm và nặng 0,6mg. Ấu trùng có màu trắng. Sau đó nó xuất hiện màu một cách chậm chạp và có màu xám vàng nhạt. Ấu trùng sâu gạo vàng phải lột xác trung bình khoảng 15 lần để trở thành trùng. Ở nhiệt độ phòng ấu trùng phát triển đầy đủ và thành thục khoảng từ 3 – 3,5 tháng. Vào thời điểm này chúng dài 28 – 32mm và nặng 130 – 160mg. Mặc dù ấu trùng phát triển đầy đủ ở thời điểm này nhưng không phải tất cả chúng sẳn sàng biến đổi thành trùng. Một thay đổi thành trùng khoảng 4 hoặc 5 tháng sau nở và lột xác hơn 20 lần

– Ấu trùng có dạng trụ tròn. Đầu thì nhỏ và nó mang đôi hàm nhai rất khỏe như một đôi râu ngắn. Đốt ngực thứ nhất thường dài và đen hơn hai đốt kế tiếp. Phần bụng thì dài gồm 9 đốt. Đốt ngực cuối cùng thì nhỏ và có dạng hình nón. Nó mang 1 cặp móc nhỏ. Trên mặt bụng của các đốt bụng giữa đốt thứ 8 và thứ 9 mang lổ hậu môn.

– Thành trùng thì không hoạt động. Chúng không ăn hay chuyển động. Đầu của thành trùng cong về mặt dưới bụng nên nó không thể thấy phần lưng. Thành trùng của sâu gạo không mang kén, hầu hết các đặc điểm của con đực có thấy xuyên qua lớp da của chúng. Phần đầu có râu và miệng. Mắt lúc đầu rất khó thấy sau đó mắt có màu và dễ nhận ra ở cạnh phần đầu như là hai thanh màu nâu sáng. Thành trùng đầu tiên có màu rất tái nhưng sau một thời gian trở nên vàng đậm. Giai đoạn cuối của thành trùng kết thúc vào ngày thứ bảy ở nhiệt độ phòng bình thường.

– Khi con trưởng thành ở giai đoạn đầu tiên, đầu và đốt đầu tiên của phần đầu có màu xám nhưng những cánh bao phủ hoàn toàn phần bụng có màu trắng. Kế tiếp chúng trở nên màu xám đỏ và sau đó toàn bộ cơ thể có màu xám đậm. Con đực và con cái gần như giống nhau nhưng có thể nhận ra con đực nhờ nhấn phần bụng của chúng qua kính hiển vi giải phẩu. Con đực có một gai cứng sẽ lồi ra khi nhấn vào phần cuối bụng. Cá thể trưởng thành thường sống 2 hoặc 3 năm và sau đó thì chết. Con cái có thể đẻ trung bình 280 trứng trong đời sống của nó.

6.2 Giá trị dinh dưỡng
– Giá trị dinh dưỡng của sâu gạo rất tốt. Những sâu này có thể được sử dụng làm thức ăn cho động vật trong bể kính và các vườn quốc gia và chúng cũng là thức ăn tốt cho cá cũng như chim cảnh. Phân tích dinh dưỡng ở những giai đoạn khác nhau của sâu gạo được trình bày trong bảng 2:

dinh duong sau gao

– Giá trị dinh dưỡng của sâu gạo như là thức ăn sống đã được thử nghiệm cho cá Tai tượng da beo giống (Astronotus ocellatus) cho các thí nghiệm dinh dưỡng. Hai nhóm cá cho ăn ấu trùng sâu gạo và mảnh cá khô thương mại. Mỗi nhóm hai lần lặp lại. Kết qủa cho thấy tăng trọng của cơ thể cá cho ăn ấu trùng sâu gạo có ý nghĩa so với cá cho ăn nhân tạo và cá không có dấu hiệu bệnh.

6.3 Kỹ thuật nuôi sâu gạo
– Nuôi sinh khối sâu gạo làm thức ăn sống sử dụng bột mì, bột đậu nành và bột sữa tiệt trùng. Những nồng độ khác nhau của protein đã được thiết lập thí nghiệm để quan sát mức độ khác nhau của khẩu phần protein ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sinh sản của sâu gạo. Bốn khẩu phần thí nghiệm là:
+ A: 400g bột mì.
+ B: 300g bột mì + 100g bột đậu nành.
+ C: 300g bột mì + 100g bột sữa tiệt trùng.
+ D: 200g bột mì + 100g bột đậu nành + 100g bột sữa tiệt trùng.

– Khoảng 100 con sâu gạo trưởng thành bố trí để nuôi sinh khối duy trì ở 28 độ C được đặt trong những khay chứa các khẩu phần thí nghiệm thức ăn khac nhau và giữ ở đó 24 giờ cho chúng đẻ trứng. Sau đó trùng trưởng thành sẽ được chuyển đi. Sau một tuần ấu trùng nở và ăn các khẩu phần thức ăn thí nghiệm. Trọng lượng thân và chiều dài thân được cân bằng và đo mỗi hai tuần. Nước được tưới vào trên giấy lọc đặc trên khay thức ăn để bảo đảm độ ẩm cho ấu trùng.

– Kết quả cho thấy tất cả các khẩu phần thí nghiệm thì đủ cung cấp phát triển bình thường (Bảng 3). Kết quả tốt nhất biểu hiện qua nhóm C và D với những khẩu phần có bổ sung bột sữa tiệt trùng. Điều này có thể do sự phối hợp tốt của amino acid trong bột sữa tiệt trùng.

thuc an nuoi sau gao

– Độ ẩm là nhân tố rất quan trọng để thành công trong nuôi sâu gạo. Như nhiều côn trùng chuyên sống trong kho, sâu gạo bình thường ăn các vật liệu thức ăn khô và lượng nước từ thức ăn thì có giới hạn. Những côn trùng này có thể chiết xuất mỗi vết của nước từ nước tiểu và sản xuất phân rất khô. Nếu ấu trùng sâu gạo vàng được cho ăn thức ăn khô, chúng có thể sống và sinh sản 1 thế hệ trong năm và thải nhiều chất béo hơn từ cơ thể chúng. Sức sinh sản của sâu gạo vàng thì ảnh hưởng đến độ ẩm. Ở độ ẩm 20% chúng đẻ trung bình khoảng 4 trứng từ 65% đẻ 102 trứng. Sâu trưởng thành cũng trở nên hoạt động hơn ở độ ẩm 90 – 100%.

– Cần thiết cung cấp rau, rau diếp để giữ độ ẩm nuôi và chống hiện tượng ăn lẫn nhau. Ấu trùng sâu gạo vàng thường sống trong vùng tối. Nếu để ánh sáng lọt vào thì chúng phát triển nhanh hơn. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến sự phát triển. Trong thời gian của giai đoạn thành trùng của sâu gạo vàng là 6 ngày ở nhiệt độ 330C, 7 ngày ở 27 độ C, 10 ngày ở 24 độ C và 13 ngày ở 21 dộ C.

VII. Các loại thức ăn khác
– Tép (Macrobrachium lanchesteri): Tép có giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra trong tép có rất nhiều tiền sắc tố (β-carotene) tạo màu cho cá đặc biệt là chép Nhật bản, cá dĩa, cá la hán. Bên cạnh đó gạch tôm, cua cũng được dùng làm thức ăn tạo màu cho cá.

– Cá mồi: Cá mồi là những cá có kích thước nhỏ làm thức ăn cho các loài cá rồng, tai tượng. Những loài dùng để làm cá ăn mồi là cá chép, trôi, mè trắng, mè vinh và đặc biệt là cá vàng. Cá vàng đặc biệt được ưa thích là vì cá có màu đẹp, bơi lội chậm chạp nên dễ bị làm mồi. Kích thước cá mồi từ 1 – 3cm.

– Thịt bò: Hiện nay, một số người nuôi cá rồng, cá dĩa, cá La hán thường cho cá ăn thịt bò tươi. Ưu điểm là nguồn thịt sạch không có mầm bệnh nhưng giá thành cao. Giá trị dinh dưỡng thịt bò cao. Ngoài ra tim bò, gan bò cũng làm thức ăn tốt cho cá.

– Thức ăn lên màu: Trong nghề nuôi cá cảnh hiện nay, việc tạo màu cho cá (cá La hán, cá dĩa, cá vàng, đặc biệt là cá chép Nhật bản) là một yếu tố rất quan trọng. Giá trị của một con cá phụ thuộc rất lớn về sự lên màu này. Hiện nay có 2 nguồn cung cấp các sắc tố tạo màu chính cho cá là từ các nguồn thức ăn và từ sản phẩm nhân tạo.

7.1 Các nguồn thức ăn
Các nguồn thức ăn có nhiều carotene để làm tăng sự lên màu của cá là men, tảo, giáp xác đặc biệt là đầu tôm, tép.

7.2 Sản phẩm nhân tạo
– Carotenoids không tổng hợp được trong cơ thể động vật nhưng chúng có thể tổng hợp được trong thực vật và các phiêu sinh vật. Chúng có chức năng làm cho rau quả có màu sáng. Màu của carotenoids trong cây xanh bị lấn át bởi chlorophyll và chúng biểu hiện khi sự suy giảm của sắc tố lục vào mùa thu. Trong động vật các sắc tố này được tích lũy qua con đường thức ăn chẳng hạn như cho astaxanthin vào thức để tạo màu hồng ở thịt cá hồi hay màu đỏ ở tôm.

– Astaxanthin được ly trích từ tảo Hematococcus pluvialis. Tảo thuộc ngành tảo lục (Chlorophyceae) trong họ Volvocales. Hematococcus spp phân bố khắp nơi trên thế giới từ nước ngọt đến nước mặn. Khi điều kiện môi trường khắc nghiệt các tế bào Hematococcus trở nên đỏ, tích tụ lipids và astaxanthin để chống lại sự oxy hóa quang hợp và những chất oxy hóa khác.

– Astaxanthin (3,3’-dihydroxy-ß, ßcarotene-4,4’-doine) là sắc tố tự nhiên làm gia tăng sắc tố của cá hồi, cá vền, tôm và đặc biệt trong sự tạo màu ở cá cảnh. Các loại thức ăn chế biến từ tôm, tép hay tôm, tép nguyên con là nguồn sắc tố cung cấp chủ yếu cho cá. Cantaxanthin xuất hiện trên thị trường từ năm 1964 và trở nên nguồn cung cấp sắc tố quan trọng trong chế biến thức ăn cho cá thương phẩm và cá cảnh. Năm 1984, astaxanthin xuất hiện hiện trên thị trường và nó dần thay thế cantaxanthin làm nguồn cung cấp sắc tố tổng hợp chính cho cá. Sự phối hợp 75% cantaxanthin và 25% astaxanthin tạo nên sự lên màu tối ưu so với riêng rẻ từng loại.

– Ở Nấm men Phaffia rhodozyma và Tảo Hematococcus pluvialis, Spirulina chứa hàm lượng cao astaxanthin (>2.000 mg/kg). Cho nên trong nuôi cá cảnh đặc biệt trong giai đoạn ương, tảo và astaxanthin tổng hợp thường được đưa vào thức ăn cho cá. Tác động của astaxanthin lên cá là làm cá có màu đỏ sáng, tăng trưởng nhanh. Đối với cá bố mẹ sẽ cho trứng có màu đỏ.

– Màu sắc cá có thể từ thức ăn có chứa nhiều carotene. Carotene ảnh hưởng đến màu đỏ của cá nhưng nếu quá cao sẽ làm cho màu trắng của cá biến đổi sang màu hồng. Phần lớn trong thức ăn cho cá koi chứa nhiều tảo Spirulina platensis, tảo này chứa nhiều caroten làm cá có màu đỏ. Sắc tố đỏ và vàng phát triển tốt trong nước có giàu tảo xanh. Ngoài ra cá koi còn có thể cho ăn thêm thức ăn tươi sống như côn trùng, ốc, vẹm, tép và phiêu sinh.

VIII. Câu hỏi ôn tập và tài liệu thao khảo
8.1 Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày kỹ thuật nuôi ấu trùng muỗi đỏ.

2. Trình bày kỹ thuật nuôi sâu gạo.

3. Trình bày cách tạo màu cho cá cảnh.

8.2 Tài liệu tham khảo
1- Brian Ward, 1985. Aquarium Fish – survival manual. Quill Publishing Limited.175p.
2- Dick Milis, 1999. Kỹ thuật nuôi cá cảnh. Nhà xuất bản văn hóa thông tin. 271 trang.
3- Michael A.W. and Laura Woodward, 1994. Tropical reef fish – A marine awareness guide. 126p.
4- Võ Văn Chi, 1993. Cá cảnh. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. 307 trang.

Giáo trình Kỹ thuật nuôi cá Cảnh – Phần 1
Giáo trình Kỹ thuật nuôi cá Cảnh – Phần 2
Giáo trình Kỹ thuật nuôi cá Cảnh – Phần 4

Biên soạn: Ts. Bùi Minh Tâm – Giảng viên ĐH Cần Thơ (MSMH: TS331).

BÌNH LUẬN

Làm ơn để lại binh luận của bạn
Để lại tên của bạn tại đây